Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công chức và Luật Viên chức chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2020. Theo đó, sẽ có nhiều chính sách mới tác động trực tiếp đến viên chức từ năm 2020.
Thay đổi quy định về chế độ thôi việc đối với viên chức
Cụ thể, theo Khoản 6 Điều 2 Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức sửa đổi 2019 sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 45 Luật viên chức 2010 thì viên chức được hưởng trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm hoặc chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về lao động và pháp luật về bảo hiểm xã hội khi đơn vị sự nghiệp công lập đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc đối với viên chức, hết thời hạn của hợp đồng nhưng người sử dụng lao động không ký kết tiếp hợp đồng làm việc, viên chức đơn phương chấm dứt hợp đồng do ốm đau, bị tai nạn theo quy định tại khoản 4 Điều 29 Luật viên chức 2010 hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng theo quy định tại khoản 5 Điều 29 Luật viên chức 2010 trừ các trường hợp sau đây:
- Bị buộc thôi việc
- Đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc mà vi phạm quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 29 của Luật Viên chức 2010
- Chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định tại khoản 5 Điều 28 của Luật Viên chức 2010
Như vậy, Luật này đã quy định rõ chế độ thôi việc đối với viên chức khi bị đơn vị sự nghiệp công lập đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc chứ không quy định chung chung là chế độ đối với viên chức khi chấm dứt hợp đồng làm việc như hiện nay.
Thêm trường hợp viên chức bị cắt hợp đồng làm việc
Cụ thể, so với Luật Viên chức 2010, Luật này đã bổ sung thêm một trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với viên chức, là “ Viên chức không đạt yêu cầu sau thời gian tập sự”.
Hiện nay, quy định này cũng đã được đề cập tại Nghị định 29/2012/NĐ-CP về việc chấm dứt hợp đồng làm việc đối với người tập sự, tuy nhiên chưa được chính thức quy định trong Luật.
Như vậy, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức, kể từ ngày 1/7/2020, viên chức sẽ bị chấm dứt hợp đồng làm việc trong những trường hợp sau đây:
- Viên chức có 2 năm liên tiếp bị phân loại đánh giá ở mức độ không hoàn thành nhiệm vụ;
- Viên chức bị buộc thôi việc theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 57 của Luật Viên chức;
- Viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc không xác định thời hạn bị ốm đau đã điều trị 12 tháng liên tục, viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc xác định thời hạn bị ốm đau đã điều trị 6 tháng liên tục mà khả năng làm việc chưa hồi phục. Khi sức khỏe của viên chức bình phục thì được xem xét để ký kết tiếp hợp đồng làm việc;
- Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của Chính phủ làm cho đơn vị sự nghiệp công lập buộc phải thu hẹp quy mô, khiến vị trí việc làm mà viên chức đang đảm nhận không còn;
- Khi đơn vị sự nghiệp công lập chấm dứt hoạt động theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền;
- Viên chức không đạt yêu cầu sau thời gian tập sự.
Theo đó, khi đơn vị sự nghiệp công lập đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc đối với viên chức thì viên chức sẽ được hưởng trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm hoặc chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về lao động và pháp luật về bảo hiểm xã hội trừ trường hợp bị buộc thôi việc.
Nới lỏng điều kiện giải quyết nghỉ hưu đối với viên chức
Cụ thể, theo Khoản 8 Điều 2 Luật này sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 56 Luật viên chức 2010, viên chức đang trong thời hạn xử lý kỷ luật, đang bị điều tra, truy tố, xét xử thì không được bổ nhiệm, biệt phái, đào tạo, bồi dưỡng hoặc thôi việc.
Điều này đồng nghĩa với việc vẫn sẽ giải quyết chế độ nghỉ hưu cho viên chức đang trong thời hạn xử lý kỷ luật. Theo quy định hiện hành thì sẽ không giải quyết nghỉ hưu cho những đối tượng này.
Như vậy, có thể thấy, Luật sửa đổi đã nới lỏng điều kiện giải quyết nghỉ hưu đối với viên chức so với quy định hiện hành tại Luật viên chức 2010 .
Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn chỉ còn áp dụng với 3 đối tượng
- Hiện hành, hợp đồng làm việc áp dụng đối với:
+ Người đã thực hiện xong hợp đồng làm việc xác định thời hạn;
+ Cán bộ, công chức chuyển thành viên chức.
- Từ 1/7/2020, hợp đồng làm việc áp dụng đối với:
+ Viên chức được tuyển dụng trước ngày 1/7/2020.
+ Cán bộ, công chức chuyển sang làm viên chức theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 58 của Luật này.
+ Người được tuyển dụng làm viên chức làm việc tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Có nghĩa, theo Luật mới, viên chức được tuyển dụng từ ngày 1/7/2020 trở đi, không thuộc 2 trường hợp đặc biệt nêu trên, hết hợp đồng xác định thời hạn sẽ không được ký hợp đồng không xác định thời hạn mà ký tiếp hợp đồng xác định thời hạn nếu đáp ứng được các yêu cầu đối với viên chức theo quy định của pháp luật.
Xử lý đối với viên chức tuyển dụng trước 1/7/2020 nhưng chưa có hợp đồng làm việc không xác định thời hạn
Trường hợp này, Luật quy định xử lý như sau:
- Tiếp tục thực hiện hợp đồng làm việc đã ký kết;
- Sau khi kết thúc thời hạn của hợp đồng làm việc đã ký kết thì được ký kết hợp đồng làm việc không xác định thời hạn nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu theo quy định của pháp luật.
Xử lý đối với hợp đồng làm việc xác định thời hạn hết hạn
Bổ sung quy định, trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập còn nhu cầu, viên chức đáp ứng đầy đủ các yêu cầu theo quy định của pháp luật thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập phải ký kết tiếp hợp đồng làm việc với viên chức.
Trường hợp không ký kết tiếp hợp đồng làm việc với viên chức thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
Hoàng Mai
Link nội dung: https://phunuphapluat.nguoiduatin.vn/them-truong-hop-vien-chuc-bi-cat-hop-dong-lam-viec-tu-ngay-1-7-2020-a538397.html