(Người hỏi: Bích Trâm - Nam Định)
Trả lời:
Cảm ơn Qúy độc giả đã gửi câu hỏi đến Tòa soạn Phụ nữ & Pháp luật. Đối với các yêu cầu tư vấn của Qúy độc giả, sau khi nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan, chúng tôi có một số trao đổi như sau:
Quyền kết hôn là một trong những quyền nhân thân được quy định tại Khoản 1 Điều 39 Bộ Luật Dân sự 2015 và Khoản 1 Điều 25 Bộ luật dân sự 2015 cũng quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.”
Mặt khác, Khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của luật này và pháp luật về hộ tịch”.
Đồng thời, tại Điều 2 Thông tư số 04/2020/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch thì: “Người yêu cầu cấp bản sao trích lục hộ tịch, cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, yêu cầu đăng ký các việc hộ tịch theo quy định tại Điều 3 Luật hộ tịch (sau đây gọi là yêu cầu đăng ký hộ tịch) được uỷ quyền cho người khác thực hiện thay; trừ trường hợp đăng ký kết hôn, đăng ký lại việc kết hôn, đăng ký nhận cha, mẹ, con thì không được ủy quyền cho người khác thực hiện, nhưng một bên có thể trực tiếp nộp hồ sơ tại cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền, không phải có văn bản ủy quyền của bên còn lại…”
Có thể thấy theo quy định của pháp luật hiện hành thì đăng ký kết hôn là một trong các trường hợp không được ủy quyền để thực hiện, vì vậy, Anh/Chị cần trực tiếp đến cơ quan có thẩm quyền để thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn nếu Anh/Chị có đầy đủ điều kiện để kết hôn.
Tư vấn bởi Nguyễn Thị Sương - Công ty Luật FDVN
Bảo Trâm
Link nội dung: https://phunuphapluat.nguoiduatin.vn/co-duoc-uy-quyen-dang-ky-ket-hon-khong-a545367.html