Chính phủ đã ban hành Nghị định 03/2021/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Nghị định có hiệu lực từ ngày 1/3/2021.
Nghị định này áp dụng đối với chủ xe cơ giới tham gia giao thông và hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Doanh nghiệp bảo hiểm được phép triển khai bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Tại Điều 3 Nghị định 03/2021/NĐ-CP quy định, xe cơ giới bao gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ và xe máy chuyên dùng, trong đó:
Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe có kết cấu tương tự theo quy định của Luật Giao thông đường bộ.
Xe máy chuyên dùng gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh theo quy định của Luật Giao thông đường bộ.
Như vậy, từ ngày 1/3, xe máy điện cũng phải mua bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự đối với chủ xe cơ giới như các loại ô tô, xe máy khi tham gia giao thông.
Một điểm mới nữa là kéo dài thời hạn bảo hiểm. Cụ thể, theo Nghị định 103/2008/NĐ-CP, thời hạn ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm là 1 năm hoặc dưới 1 năm trong một số trường hợp. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 9 Nghị định 03/2021/NĐ-CP thì thời hạn ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm như sau:
Đối với xe mô tô hai bánh, ba bánh, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe có kết cấu tương tự theo quy định của Luật Giao thông đường bộ, thời hạn bảo hiểm tối thiểu là 1 năm và tối đa là 3 năm.
Đối với các xe cơ giới còn lại, thời hạn bảo hiểm tối thiểu là 1 năm và thời hạn tối đa tương ứng với thời hạn kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường định kỳ có thời hạn trên 1 năm.
Trong các trường hợp sau, thời hạn bảo hiểm dưới 1 năm:
+ Xe cơ giới nước ngoài tạm nhập, tái xuất có thời hạn tham gia giao thông trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới 1 năm.
+ Niên hạn sử dụng của xe cơ giới nhỏ hơn 1 năm theo quy định của pháp luật.
+ Xe cơ giới thuộc đối tượng đăng ký tạm thời theo quy định của bộ Công an.
Trường hợp chủ xe cơ giới có nhiều xe tham gia bảo hiểm vào nhiều thời điểm khác nhau trong năm nhưng đến năm tiếp theo có nhu cầu đưa về cùng một thời điểm bảo hiểm để quản lý, thời hạn bảo hiểm của các xe này có thể nhỏ hơn 1 năm và bằng thời gian hiệu lực còn lại của hợp đồng bảo hiểm giao kết đầu tiên của năm đó...
Nghị định cũng bổ sung thiệt hại về tài sản do xe máy điện gây ra vào đối tượng được bồi thường cùng nhóm với thiệt hại về tài sản do xe mô tô hai bánh, ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự gây ra. Mức bồi thường là 50 triệu đồng/vụ tai nạn. Đối với thiệt hại về tài sản do xe ô tô; máy kéo; rơ moóc; sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe máy chuyên dùng gây ra, mức bồi thường vẫn được giữ nguyên là 100 triệu đồng/vụ tai nạn.
Thông tư này cũng quy định lại mức phí bảo hiểm của từng loại xe cơ giới. Đáng chú ý, tại Phụ lục 1 về biểu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự năm của chủ xe mô tô 2 bánh, thay vì chỉ quy định mức phí xe mô tô từ 50cc trở xuống là 55.000 đồng và xe trên 50cc là 60.000 đồng thì dự thảo đã bổ sung thêm mức phí của xe máy điện là 55.000 đồng.
Bảo Đăng (T/h)
Link nội dung: https://phunuphapluat.nguoiduatin.vn/tu-1-3-xe-may-dien-phai-mua-bao-hiem-bat-buoc-trach-nhiem-dan-su-a550456.html