Theo Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 ở trẻ em được được ban hành kèm theo Quyết định số 405/QĐ-BYT ngày 22/2/2022, trẻ em mắc COVID-19 có thời gian ủ bệnh từ 2 – 14 ngày, trung bình là 4 – 5 ngày.
Ở giai đoạn khởi phát, trẻ có một hay nhiều triệu chứng như sốt, mệt mỏi, đau đầu, ho khan, đau họng, nghẹt mũi/sổ mũi, mất vị giác/khứu giác, nôn và tiêu chảy, đau cơ, tuy nhiên trẻ thường không có triệu chứng.
Các triệu chứng lâm sàng thường gặp gồm sốt (63%), ho (34%), buồn nôn/ nôn (20%), ỉa chảy (20%), khó thở (18%), triệu chứng mũi họng (17%), phát ban (17%), mệt mỏi (16%), đau bụng (15%), triệu chứng giống Kawasaki (13%), không có triệu chứng (13%), triệu chứng thần kinh (12%), kết mạc (11%) và họng đỏ (9%).
Một số triệu chứng khác ít gặp hơn ở trẻ mắc COVID-19 là tổn thương da niêm (hồng ban các đầu ngón chi, nổi ban da...), rối loạn nhịp tim, tổn thương thận cấp, viêm thanh mạc (tràn dịch màng phổi, tràn dịch màng bụng, tràn dịch màng tim), gan to, viêm gan, bệnh não (co giật, hôn mê hoặc viêm não).
Hầu hết trẻ chỉ bị viêm đường hô hấp trên với sốt nhẹ, ho, đau họng, sổ mũi, mệt mỏi, hay viêm phổi và thường tự hồi phục sau khoảng 1 - 2 tuần.
Khoảng 2% trẻ có diễn tiến nặng, thường vào ngày thứ 5 - 8 của bệnh. Trong đó, một số trẻ (khoảng 0,7%) cần điều trị tại các đơn vị hồi sức tích cực với các biến chứng nặng như hội chứng nguy kịch hô hấp cấp (ARDS), viêm cơ tim, nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm trùng, và hội chứng viêm đa hệ thống (MIS-C).
Các yếu tố tiên lượng nặng trẻ béo phì, trẻ chậm phát triển, bại não, bệnh phổi mạn, suy giảm miễn dịch, đái tháo đường, tim bẩm sinh... Tỷ lệ tử vong ở trẻ rất thấp (< 0,1%), hầu hết tử vong do bệnh nền.
Thời kỳ hồi phục thường trong giai đoạn từ ngày thứ 7-10 ngày, nếu không có các biến chứng nặng, trẻ sẽ hết dần các triệu chứng lâm sàng và khỏi bệnh.
Các yếu tố nguy cơ khiến bệnh diễn biến nặng nếu trẻ mắc COVID-19:
- Trẻ sinh non, cân nặng thấp
- Béo phì, thừa cân
- Đái tháo đường, các bệnh lý gene và rối loạn chuyển hóa
- Các bệnh lý phổi mạn tính, hen phế quản
- Ung thư (đặc biệt là các khối u ác tính về huyết học, ung thư phổi...)
- Bệnh thận mạn tính
- Ghép tạng hoặc cấy ghép tế bào gốc tạo máu
- Bệnh tim mạch (tim bẩm sinh, suy tim, tăng áp phổi, bệnh động mạch vành hoặc bệnh cơ tim, tăng huyết áp)
- Bệnh lý thần kinh (bao gồm cả chứng sa sút trí tuệ, rối loạn tâm thần)
- Bệnh hồng cầu hình liềm, bệnh thalassemia, bệnh huyết học mạn tính khác
- Các bệnh lý suy giảm miễn dịch bẩm sinh hoặc mắc phải
- Bệnh gan
- Đang điều trị bằng thuốc corticoid hoặc các thuốc ức chế miễn dịch khác
- Các bệnh hệ thống
Ngoài những yếu tố trên, bộ Y tế cho biết trẻ nhũ nhi dưới 12 tháng tuổi cũng có nguy cơ cao diễn tiến nặng. Biện pháp phòng bệnh vẫn đóng vai trò quan trọng giúp giảm tỷ lệ mắc và tử vong của bệnh, đó là tuân thủ 5K, kết hợp với tiêm vắc xin cho trẻ theo hướng dẫn của bộ Y tế, phát hiện sớm và phân tầng điều trị ca bệnh phù hợp với mức độ nặng của bệnh.
Link nội dung: https://phunuphapluat.nguoiduatin.vn/tre-mac-covid-19-khi-nao-co-nguy-co-dien-bien-nang-a564218.html