Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo không ảnh hưởng lớn đến Việt Nam

Theo ước tính của Bộ NN&PTNT, ngoài lượng tiêu thụ nội địa, cả nước còn khoảng 13,5 triệu tấn thóc, tương đương 7-8 triệu tấn gạo cho xuất khẩu.

Theo kế hoạch, chiều ngày 15/8, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) Lê Minh Hoan sẽ trả lời chất vấn các vấn đề của ngành nông nghiệp tại phiên họp thứ 25 Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Trong đó, việc chuyển đổi mục đích sử dụng, thu hồi diện tích đất trồng lúa, bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu gạo là một vấn đề chất vấn được Bộ trưởng Lê Minh Hoan báo cáo giải trình gửi các đại biểu Quốc hội.

Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, an ninh lương thực quốc gia luôn là vấn đề thiết yếu, cấp bách khi nguồn cung và khả năng tiếp cận lương thực đang chịu tác động lớn. Ngày nay, việc đảm bảo an ninh lương thực không chỉ đề cập đến đủ lượng lúa gạo, mà còn bao gồm các sản phẩm lương thực, thực phẩm khác như thịt cá, rau quả, cây lương thực khác.

Tuy nhiên, với cơ cấu tiêu dùng hiện nay thì gạo vẫn là mặt hàng tiêu dùng chính, chiếm 70% trong tiêu dùng lương thực thực phẩm (LTTP) của hộ gia đình. Việc giữ đất lúa là cần thiết để bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đồng thời phải bảo đảm sinh kế, thu nhập cho người trồng lúa trên cơ sở phát huy nguồn lực của Nhà nước, nhân dân và các thành phần kinh tế.

Kinh tế vĩ mô - Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo không ảnh hưởng lớn đến Việt Nam

Ngoài tiêu thu nội địa, Việt Nam còn 8 triệu tấn gạo cho xuất khẩu.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, tổng diện tích lúa cả nước năm 2023 khoảng 7,1 triệu ha; năng suất trung bình đạt 60,7 tạ/ha, sản lượng ước đạt trên 43,1 triệu tấn thóc, tăng khoảng trên 452.000 tấn so với năm 2022.

"Từ nay đến cuối năm nếu không có diễn biến bất thường của thời tiết thì sản lượng lúa sẽ bảo đảm kế hoạch đáp ứng đầy đủ nhu cầu lúa gạo trong nước và đáp ứng yêu cầu xuất khẩu", Bộ trưởng nhận định.

Trong khi đó theo tính toán ở mức an toàn rất cao của Bộ NN&PTNT, lượng lúa dùng cho đảm bảo an ninh lương thực của 100 triệu dân và các nhu cầu tiêu thụ nội địa khác (dùng chế biến, thức ăn chăn nuôi, dự trữ trong dân, dự trữ quốc gia, làm giống...) khoảng 29,5 triệu tấn thóc/năm, còn khoảng 13,5 triệu tấn thóc, tương đương 7-8 triệu tấn gạo dùng cho xuất khẩu.

Ngoài thóc, gạo sản xuất, mỗi năm Việt Nam cũng nhập khẩu sản lượng gạo nhất định từ Campuchia, Ấn Độ. Chẳng hạn, lượng gạo nhập từ Campuchia khoảng hơn 1 triệu tấn mỗi năm, để bù đắp trong trường hợp cần thiết.

Theo số liệu của Bộ Công Thương Ấn Độ, tính chung 5 tháng đầu năm 2023, Việt Nam nhập khoảng 367.500 tấn gạo Ấn Độ, tăng gần 32% so với cùng kỳ 2022 và đứng thứ 8 trong số các nước nhập gạo từ quốc gia tỷ dân này.

Bộ trưởng khẳng định, gạo nhập từ Ấn Độ chủ yếu dành chế biến thực phẩm, làm thức ăn chăn nuôi. Do đó, việc Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo trắng không ảnh hưởng lớn đến gạo phục vụ cho tiêu dùng của Việt Nam.

Để đảm bảo an ninh lương thực, theo Bộ trưởng Hoan, ngoài lúa gạo, hàng năm Việt Nam sản xuất bình quân khoảng hơn 7 triệu tấn thịt hơi xuất chuồng, 10 triệu tấn thủy sản và chục triệu tấn rau quả. "Về tổng thể ở cấp độ quốc gia, an ninh lương thực nếu xét trên khả năng cung cấp là đảm bảo", Bộ trưởng khẳng định.

Vấn đề đảm bảo lương thực đến năm 2030, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, với việc giữ diện tích đất trồng lúa là 3,5 triệu ha đến năm 2030 thì diện tích gieo trồng lúa là khoảng 7 triệu ha sẽ cho sản lượng khoảng 43 triệu tấn thóc/năm, tương đương với 27-28 triệu tấn gạo 

PV