Tài chính đồng hành cùng đất nước vào kỷ nguyên mới

Đất nước ta đang chuyển mình mạnh mẽ vào Xuân mới Ất Tỵ - 2025. Đây là năm sẽ diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của dân tộc, hướng tới kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và 40 năm trong hành trình đổi mới… Với cả một cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế to lớn chưa từng có, cùng những khát vọng định hướng mang tính chiến lược, dài hạn, chúng ta đang đứng trước cánh cửa lịch sử, tự tin vững bước vào kỷ nguyên mới.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: "Với thế và lực đã tích luỹ được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta hội tụ đủ những điều kiện cần thiết... để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam"(1). Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, góp phần hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước cất cánh bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc – như Tổng Bí thư nhấn mạnh - vai trò của tài chính là vô cùng to lớn, nó cần phải được coi như một công cụ ưu tiên hàng đầu. Trong bối cảnh đó, cơ hội và thách thức nào đang đặt ra cho sự phát triển lành mạnh, bền vững của thị trường tài chính Việt Nam đồng hành cùng đất nước?

Thị trường tài chính và những thách thức đặt ra

Trong những năm đổi mới, hệ thống thị trường tài chính Việt Nam với ba trụ cột ngân hàng - bảo hiểm – chứng khoán đã có những bước phát triển vượt bậc, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Khung pháp lý không ngừng được hoàn thiện, góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả của thị trường. Quy mô và tính thanh khoản của thị trường tài chính tăng lên đáng kể. Các trung gian tài chính ngày càng vững mạnh, tham gia tích cực vào cả thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Bên cạnh hệ thống ngân hàng, hệ thống tài chính cũng phát triển toàn diện và đa dạng hơn với thị trường chứng khoán, bảo hiểm và các định chế tài chính phi ngân hàng khác. Các sản phẩm tài chính mới liên tục được triển khai, cùng với việc ứng dụng công nghệ số ngày càng phổ biến. Nhờ đó, nguồn lực tài chính được huy động, quản lý, phân bổ và sử dụng ngày càng hiệu quả hơn. Xem xét cụ thể hơn về số liệu trên từng lĩnh vực, cho thấy:

Một là lĩnh vực tín dụng ngân hàng: Tính đến hết quý I/2024, hệ thống các tổ chức tín dụng bao gồm: 46 ngân hàng thương mại (35 ngân hàng trong nước, 11 ngân hàng liên doanh và ngân hàng 100% vốn nước ngoài); 01 ngân hàng chính sách xã hội; 01 ngân hàng phát triển; 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 26 tổ chức tín dụng phi ngân hàng; 01 ngân hàng hợp tác xã; 1.178 quỹ tín dụng nhân dân và 04 tổ chức tài chính vi mô(2).

null
TS. Lê Minh Nghĩa, Chủ tịch Hiệp hội tư vấn tài chính Việt Nam - VFCA.

Từ năm 2010 trở lại đây, hệ thống các tổ chức tín dụng tuy không có nhiều thay đổi về số lượng nhưng đã ghi nhận sự tăng trưởng khá mạnh mẽ về quy mô và năng lực tài chính. Tổng tài sản của các tổ chức tín dụng tính đến ngày 30/6/2024 đạt 21.070.762 tỷ đồng, tăng 4,97% so với cuối năm 2023(3). Đến tháng 10/2024, tín dụng toàn hệ thống tăng khoảng 9% so với cuối năm 2023(4). Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn tại thời điểm 30/4/2024 là 28,28%. Tỷ lệ an toàn vốn CAR qua các năm đều đạt trong giới hạn quy định. Đáng chú ý, tín dụng khu vực tư nhân trên GDP có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong 15 năm qua, từ 82,87% GDP (năm 2008) nay đã tăng gấp 1,6 lần, tương đương 132,75% GDP (năm 2023)(5).

Hai là lĩnh vực chứng khoán: Thị trường chứng khoán thứ cấp tính từ 28/7/2000 đến nay đã gần 24 năm hình thành và phát triển. Tính đến ngày 16/12/2024, chỉ số VN-Index đạt 1.263,79 điểm, tăng 11,8% so với cuối năm trước, chỉ số HNX-Index đóng cửa ở mức 227,04 điểm, giảm 1,7%. Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu và quy mô niêm yết duy trì đà tăng trưởng. Mức vốn hóa thị trường cổ phiếu 3 sàn HOSE, HNX và UPCoM đến ngày 16/12/2024 đạt 7.085 nghìn tỷ đồng, tăng 19,3% so với cuối năm trước, tương đương 69,3% GDP ước tính năm 2023(6). Khả năng nâng hạng thị trường chứng khoán là hiện thực.

Thị trường trái phiếu: Đến tháng 11/2024, tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam đạt gần 403 nghìn tỷ đồng, tăng 60% so với cùng kỳ năm 2023(7). Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng trưởng từ 9% GDP trong năm 2018 lên gần 12% GDP trong năm 2024(8). Tính từ đầu năm đến ngày 20/11, đã có 4 lô trái phiếu xanh được phát hành theo nguyên tắc xanh của Hiệp hội Thị trường Vốn quốc tế (ICMA), chiếm khoảng 2% tổng giá trị phát hành trong kỳ. Đặc biệt, tháng 10 ghi nhận lô trái phiếu 1.000 tỷ đồng do CTCP Đầu tư và Phát triển Đa quốc gia I.D.I phát hành (thuộc lĩnh vực thủy sản) được bảo lãnh thanh toán bởi GuarantCo - đây là lô trái phiếu xanh đầu tiên được phát hành bởi một doanh nghiệp phi tài chính(9).

Ba là lĩnh vực bảo hiểm: Thị trường bảo hiểm Việt Nam đi vào hoạt động từ năm 1993, qua hơn 30 năm đã phát triển cả về chất lượng và số lượng, cũng như mức độ đa dạng của doanh nghiệp bảo hiểm. Đến nay, Việt Nam có 85 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Trong đó có: 32 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ; 19 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ; 02 doanh nghiệp tái bảo hiểm; 32 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và 1 chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài(10). Tổng tài sản của các doanh nghiệp bảo hiểm đã có sự tăng trưởng khá nhanh trong hơn 15 năm qua, tăng gấp 12,7 lần, mức tăng trung bình khoảng 23%/năm, đạt 913.336 tỷ đồng vào năm 2023. Giá trị đầu tư trở lại nền kinh tế của doanh nghiệp bảo hiểm cũng đóng góp khá lớn (trung bình 3,9% GDP hàng năm, năm 2023: 762.580 tỷ đồng). Đến tháng 9 năm 2024, tổng tài sản của thị trường bảo hiểm ước đạt 978.906 tỷ đồng, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước(11). Doanh thu phí bảo hiểm đã có sự gia tăng đáng kể trong 15 năm qua, tăng gấp 10,7 lần (giai đoạn 2008 – 2023).(12)

Nhìn chung, thông qua các hoạt động điều tiết thu nhập, phân phối của cải xã hội phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước; giám sát các hoạt động quốc gia đảm bảo tái sản xuất xã hội và thực hiện đầu tư phát triển kinh tế, thị trường tài chính đã và đang ngày càng thực hiện tốt nhiệm vụ: i) Truyền dẫn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, thu hút các nguồn tài chính qua đó thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư hiệu quả; ii) Đáp ứng nhu cầu vốn đa dạng của các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức và Nhà nước, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng; iii) Tạo điều kiện cho các chính sách mở cửa đầu tư của Chính phủ, thu hút vốn đầu tư nước ngoài; iv) Tăng tính chuyển đổi cho các tài sản tài chính; v) Cung cấp thông tin và giúp đánh giá các giá trị kinh tế của cá nhân, gia đình, doanh nghiệp, tổ chức và Nhà nước.

Tuy nhiên, bên cạnh các thành tựu đạt được, thị trường tài chính Việt Nam vẫn tồn tại một số hạn chế như sau: Tư duy nhận thức về vai trò tài chính cá nhân, gia đình với tư cách là một trong ba trụ cột của nền tài chính quốc gia còn chưa đúng mức. Khung pháp lý còn có những bất cập, chưa thực sự theo kịp với quy mô, tốc độ, chất lượng phát triển của thị trường, nhất là trong lĩnh vực tài chính số, tài chính xanh, tài chính cá nhân… Quy mô thị trường tài chính nhìn chung còn khiếm tốn và phát triển không đồng đều, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Sản phẩm tài chính chưa thực sự đa dạng, chất lượng còn hạn chế, thiếu cả chiều sâu và chiều rộng, chưa có nhiều sản phẩm đầu tư hấp dẫn cho nhà đầu tư, đặc biệt là các sản phẩm gián tiếp thông qua quỹ đầu tư. Thị trường tài chính còn chứa đựng nhiều rủi ro, chưa bền vững, cơ cấu chưa hợp lý, chưa phù hợp chuẩn mực quốc tế và yêu cầu phát triển mới. Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, dàn trải, gây lãng phí. Hoạt động cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém chậm; tình trạng “sở hữu chéo”, cho vay tín dụng đối với doanh nghiệp “nội bộ”, “sân sau” còn phức tạp và chưa có biện pháp giải quyết triệt để. Mức độ áp dụng công nghệ chưa cao, khả năng nhận diện và kiểm soát rủi ro công nghệ, an ninh mạng còn nhiều hạn chế, hiệu quả thấp…

Những hạn chế nêu trên đang là những thách thức cần khắc phục để thị trường tài chính cùng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chủ động vững vàng bước vào kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Giải pháp phát triển thị trường tài chính lành mạnh, bền vững trong kỷ nguyên mới

Để thị trường tài chính tận dụng được cơ hội và vượt qua thách thức, phát triển lành mạnh, bền vững trong kỷ nguyên mới, cần triển khai đồng bộ các giải pháp phù hợp với các định hướng, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã chỉ ra.

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích và làm rõ một số giải pháp cần thiết, mang tính ưu tiên:

Một là, đổi mới tư duy nhận thức, nâng cao dân trí tài chính, quản lý tài chính cá nhân, gia đình.

Cấu trúc của hệ thống tài chính của mọi quốc gia đều dựa trên 3 trụ cột: tài chính nhà nước (hay tài chính công), tài chính doanh nghiệp (gồm doanh nghiệp và tổ chức), và tài chính cá nhân (hay tài chính dân cư gồm: cá nhân và hộ gia đình). Tài chính cá nhân đóng vai trò rất quan trọng với sự phát triển của thị trường tài chính, vừa là nguồn cung cấp vốn (thông qua hoạt động tích lũy và đầu tư), vừa là người sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, đến nay tài chính cá nhân ở nước ta vẫn đang là mắt xích yếu nhất, có nguy cơ thách thức sự phát triển ổn định và bền vững của hệ thống tài chính quốc gia. Phần lớn người dân còn thiếu kiến thức kinh tế tài chính. Chỉ số về hiểu biết tài chính cá nhân của người dân Việt Nam thấp hơn các nước trong khu vực Đông Nam Á như: Thái Lan, Malaysia, chỉ cao hơn Campuchia, và chưa tương xứng với tốc độ phát triển, hội nhập quốc tế nhanh chóng của nền kinh tế.

Nguyên nhân của mọi nguyên nhân là từ nhận thức. Cái gốc của mọi sự phát triển đều bắt nguồn từ giáo dục. Giáo dục về kinh tế tài chính cá nhân đến nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn bị bỏ ngỏ, tự phát. Đã đến lúc phải nhận thức đúng, hành động ngay về việc nâng cao dân trí kinh tế tài chính, quản lý tài chính cá nhân với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, xã hội và nhất là hệ thống giáo dục đào tạo. Triển khai truyền thông mạnh mẽ về việc nâng cao dân trí kinh tế tài chính, phổ cập kiến thức tài chính cho người dân thông qua các kênh báo chí, truyền hình.

5-1738146812.jpg
Phát triển thị trường tài chính lành mạnh, bền vững trong kỷ nguyên mới.

Hai là, đẩy mạnh phát triển tài chính số.

Tài chính là một trong những lĩnh vực áp dụng công nghệ số mạnh mẽ nhất, chỉ sau ngành công nghệ. Để tiếp tục phát huy vai trò tài chính số, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước, trước mắt cần chú trọng những vấn đề sau:

Về mặt nhận thức, cần nâng cao dân trí tài chính số. Từ phía Nhà nước, trong quá trình triển khai Chiến lược tài chính toàn diện, cần đặc biệt nhấn mạnh phổ cập tri thức tài chính số, trang bị cho người dân kiến thức về cách sử dụng các phần mềm, ứng dụng và nền tảng kỹ thuật số thông qua các thiết bị như điện thoại thông minh, máy tính để sử dụng hiệu quả các sản phẩm công nghệ tài chính (Fintech) và tránh những sai lầm không đáng có.

Xây dựng khung pháp lí chặt chẽ cho các loại hình dịch vụ tài chính số, kịp thời xây dựng khuôn khổ pháp lí cho các loại hình dịch vụ mới, hướng theo tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Để xây dựng lòng tin ở người dùng, các nhà quản lí và những nhà cung cấp dịch vụ cần phải đầu tư vào việc cập nhật hệ thống phần mềm và có đội ngũ nhân lực chất lượng cao trong việc phòng ngừa và xử lí các lỗ hổng bảo mật để đảm bảo an toàn thông tin cho người dùng.

Tạo lập thị trường cung ứng dịch vụ tài chính số lành mạnh, minh bạch, hỗ trợ bảo vệ người tiêu dùng tài chính. Về lâu dài, hình thành một cơ quan chuyên trách, có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng và đủ nguồn lực và quyền hạn, đặc biệt là về nhân lực, công nghệ, để giám sát thị trường và bảo vệ hiệu quả người tiêu dùng tài chính.

Hoàn thiện cơ sở hạ tầng tài chính số. Trong đó, chú trọng hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật như mạng lưới công nghệ thông tin - truyền thông để các mạng lưới này vận hành trơn tru với phạm vi phủ sóng rộng khắp cả nước; qua đó tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ điện thoại di động cơ bản; quyền truy cập vào các dịch vụ dữ liệu để cải thiện trải nghiệm người dùng đối với các dịch vụ tài chính số.

Ba là, tập trung phát triển tài chính xanh.

Đây là một thị trường tiềm năng, không chỉ hướng đến bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, ứng phó với biến đổi khí hậu, mà còn giúp thúc đẩy các doanh nghiệp và nhà đầu tư tham gia vào các hoạt động xanh, từ đó góp phần vào quá trình tăng trưởng xanh của quốc gia. Để phát triển thị trường tài chính xanh mạnh mẽ và hiệu quả, cần thực hiện đồng bộ các hành động sau:

Hoàn thiện hành lang pháp lý cho tài chính xanh: Cần xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp lý liên quan đến tài chính xanh, như quy định về trái phiếu xanh, tín chỉ carbon và các quỹ đầu tư bền vững. Xây dựng khung tiêu chuẩn xanh với các tiêu chí cụ thể và khung báo cáo phát triển bền vững với phương pháp luận, công cụ đo lường được chuẩn hóa.

Thúc đẩy doanh nghiệp tích cực tham gia vào tiến trình xanh hóa và phát triển kinh tế xanh: Doanh nghiệp cần chủ động xây dựng chiến lược phát triển bền vững, xác định rõ ràng tầm nhìn và mục tiêu phát triển xanh của mình có phương án đầu tư xanh hiệu quả; Nâng cao tầm nhìn chiến lược của các cấp quản lý, đào tạo nhân viên về các tiêu chuẩn ESG, thiết lập các bộ phận chuyên trách về phát triển bền vững, và xây dựng chiến lược kinh doanh dựa trên các tiêu chí bền vững; tăng cường tính minh bạch trong báo cáo tài chính và báo cáo phát triển bền vững, tránh hiện tượng "tẩy xanh" (greenwashing); đầu tư vào công nghệ mới và đổi mới sáng tạo, đặc biệt là các giải pháp công nghệ giúp giảm thiểu phát thải và sử dụng hiệu quả tài nguyên.

Tăng cường truyền thông về tài chính xanh: Các cơ quan báo chí và truyền thông cần đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin chính xác và dễ hiểu về tài chính xanh, cũng như các chính sách và quy định của Chính phủ, qua đó nâng cao nhận thức cộng đồng về phát triển bền vững.

Giáo dục, nâng cao nhận thức cho nhà đầu tư, người tiêu dùng: giúp người dân nâng cao nhận thức về tăng trưởng xanh, tài chính xanh; cân nhắc đầu tư vào các doanh nghiệp thực hiện tốt ESG, các sản phẩm trái phiếu xanh, tiền gửi xanh vì đây không chỉ là trách nhiệm xã hội mà còn mang lại lợi ích dài hạn trong việc bảo vệ vốn đầu tư và đảm bảo lợi nhuận bền vững.

Bốn là sớm nâng hạng thị trường chứng khoán từ cận biên lên mới nổi.

Để thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính, việc nâng hạng thị trường chứng khoán từ cận biên lên mới nổi là một mục tiêu quan trọng. Điều này không chỉ giúp tăng trưởng niềm tin của nhà đầu tư, mà còn thu hút nguồn vốn quốc tế, nâng cao giá trị và vị thế của thị trường chứng khoán Việt Nam. Để đạt được mục tiêu này, cần triển khai các giải pháp đồng bộ nhằm cải thiện hệ thống pháp lý, nâng cao sự minh bạch và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi nhà đầu tư:

Tiếp tục ưu tiên tập trung thực hiện các giải pháp đã đề ra tại Chương trình hành động thực hiện Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2030, thực hiện tốt quy định tại Thông tư số 68/2024/TT-BTC để hoàn thành mục tiêu nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2025;

Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành: nhất là Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước trong việc xem xét sửa quy định pháp lý liên quan để gỡ các nút thắt hiện hữu về nâng hạng thị trường chứng khoán như: giảm thủ tục và rút ngắn thời gian mở tài khoản, các chính sách quản lý ngoại hối, điều hành tỷ giá, quy định về giới hạn tỷ lệ sở hữu của nước ngoài trong từng lĩnh vực kinh doanh…đảm bảo quyền, trách nhiệm, sự bình đẳng cho các nhà đầu tư: cá nhân, tổ chức, trong nước, nước ngoài tham gia thuận lợi và có hiệu quả vào thị trường chứng khoán Việt Nam.

Đặc biệt, sau “nâng hạng” thì “trụ hạng “sẽ là thách thức, cần có các giải pháp căn cơ, lâu dài, triển khai các biện pháp để duy trì và phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam, để đảm bảo thị trường tiếp tục hoạt động ổn định và thu hút đầu tư dài hạn.

Theo TS. Lê Minh Nghĩa, chủ tịch VFCA/ Vietnamfinance