XEM VIDEO: Nghệ sĩ Năm Nghĩa ca "Điên đảo vì tình".
Từ thầy giáo mê cổ nhạc đến “người mở đầu kỷ nguyên vọng cổ”
Khi nhắc đến cha ruột của NSƯT Bảo Quốc, giới mộ điệu cải lương thường gọi bằng cái tên thân thuộc: Năm Nghĩa - nghệ danh của nghệ sĩ Lư Hòa Nghĩa. Ông sinh năm 1911 tại Bạc Liêu trong một gia đình nền nếp, sớm bộc lộ năng khiếu đờn ca tài tử và được danh sư Nguyệt Chiếu kèm cặp. Chính giọng ca mùi mẫn cùng sự bền bỉ học hành đã đưa ông rời bục giảng thầy giáo để dấn thân trọn vẹn vào sân khấu.
Trong dòng chảy cổ nhạc Nam Bộ, Lư Hòa Nghĩa là cái tên gắn với bước ngoặt quan trọng: Năm 1934, từ cảm hứng với Dạ cổ hoài lang (nhịp 4) của nhạc sĩ Cao Văn Lầu, ông thai nghén rồi hoàn chỉnh một bài 20 câu theo nhịp đôi dài hơn, sau này được biết đến với hai tên “Văng vẳng tiếng chuông chùa” / “Vì tiền lỗi đạo”. Từ đây, cấu trúc nhịp 8 của vọng cổ định hình, mở ra thời kỳ mới cho sân khấu ca kịch Nam Bộ. Bản thu của một hãng đĩa nổi tiếng khiến giai điệu và tên tuổi nghệ sĩ Năm Nghĩa lan tỏa khắp Nam Kỳ lục tỉnh, rồi bứt khỏi vùng sông nước để đi xa hơn.

Nghệ sĩ Lư Hòa Nghĩa - biệt danh Năm Nghĩa - cha ruột của NSƯT Bảo Quốc.
Vai trò “đầu tàu” ấy được các bậc tiền bối ghi nhận. Nhiều tư liệu nghiên cứu, hồi cố đều nhấn mạnh: Nếu như Sáu Lầu là người khai mở Dạ cổ hoài lang, thì Năm Nghĩa là nghệ sĩ đầu tiên đưa bản vọng cổ nhịp 8 phổ cập rộng rãi, làm nên “kỷ nguyên vọng cổ” - nền móng bền vững cho cải lương sau này. Ông được coi như là người mở đường.
Rời vùng đất Bạc Liêu, nghệ sĩ Năm Nghĩa cộng tác với nhiều gánh hát lớn, dần thành đào kép, đạo diễn, rồi soạn giả có uy tín. Không chỉ ca hay diễn giỏi, ông tổ chức đoàn, dựng tuồng, “đỡ đầu” và quy tụ tài năng. Những năm 1940 - 1950, tên tuổi Năm Nghĩa gắn với các đoàn tiêu biểu và các vở tuồng được khán giả nhớ dai thuộc kỹ, đặt nền cho phong cách sân khấu xã hội của Sài Gòn thời bấy giờ.
Bước ngoặt đời riêng của ông đến vào năm 1948, khi “bước thêm một bước nữa” với bà Nguyễn Thị Thơ. Nhiều tư liệu cho biết bà Thơ là một phụ nữ giàu có ở Tây Ninh, đã qua một đời chồng. Về với Năm Nghĩa, hai người tâm đầu ý hợp, cùng xây dựng hạnh phúc và sự nghiệp.

Vợ ông Năm Nghĩa - bà bầu Thơ và con gái là nghệ sĩ Thanh Nga.
Đặc biệt Thanh Nga - con riêng của bà theo mẹ về ở với ông Năm Nghĩa từ năm lên 6 tuổi. Năm Nghĩa vẫn xem cô như con ruột, tự tay rèn từng hơi ca, nhờ nghệ sĩ Út Trong kèm cặp bài bản. Việc ông coi con riêng của vợ như con ruột không chỉ gây xúc động mà còn là một quyết định định đoạt lịch sử sân khấu: Từ cô bé tài hoa ấy mà Việt Nam có “Nữ hoàng sân khấu” Thanh Nga.
Với bà Thơ, Năm Nghĩa có 5 người con: Bảo Quốc, Chí Bình, Ánh Đào, Ánh Mai và Chí Tiên. Tình yêu nhà nghề của hai vợ chồng kết tinh thành một “đại gia đình sân khấu” hiếm có. Từ con, cháu nội ngoại đến vai vế anh em đều thành danh, tạo thành “gia tộc cải lương” vang dội nhiều thế hệ.

Nghệ sĩ Năm Nghĩa khi diễn cùng các nghệ sĩ Kim Cúc, Út Bạch Lan và Thanh Nga.
Năm 1949 - 1950, vợ chồng ông lập gánh Thanh Minh ở Sài Gòn (về sau phát triển thành đại ban), quy tụ nhiều danh tài. Đến năm 1958, khi Thanh Nga đoạt Huy chương vàng Giải Thanh Tâm, gánh chính thức đổi tên Thanh Minh - Thanh Nga. Đây là mốc son thể hiện triết lý làm nghề của Năm Nghĩa: Nuôi tài, đỡ mộng, để nghệ thuật đi tiếp bằng chính lớp kế thừa trong nhà.
Bi kịch ập đến khá sớm: Đêm 5/12/1959, khi đoàn đang diễn Người vợ không bao giờ cưới, nghệ sĩ Năm Nghĩa qua đời ở tuổi 49. Bà bầu Thơ từng vỡ òa đến mức “muốn đi theo chồng”, song rồi gượng dậy gánh vác đại gia đình và đại ban, tiếp tục đưa Thanh Minh - Thanh Nga vượt những khúc quanh lịch sử. Cộng sự, học trò và khán giả vẫn nhớ đến Năm Nghĩa như một người nghệ sĩ toàn tài: Ca, diễn, soạn, dựng, quản lý - và trên hết là một người cha, người chồng, người thầy tận tụy.
Gia tộc sân khấu và một người cha “đỡ vai” cả nhà với di sản còn mãi
Nhắc đến NSƯT Bảo Quốc - con trai trưởng của Năm Nghĩa với bà bầu Thơ là nhắc đến chặng dài danh vọng kịch trường phía Nam suốt các thập niên 1980 - 2000. Ít ai biết, khởi đầu, Bảo Quốc là một kép chính triển vọng của cải lương. Ông từng kể: “Tôi chủ động chuyển sang diễn hài khi biết chính mình kém hơi ca, sự ngân nga không đủ mùi để đi vào những vai thương cảm”. Điều đó không chỉ bộc lộ sự tỉnh táo nghề nghiệp, mà còn phần nào hé lộ cách người cha năm xưa nhìn thấy và định vai đúng cho con trai, đưa Bảo Quốc sang “đất” hề để tỏa sáng, rồi trở thành “đệ nhất danh hài” một thời.
Trong nhà Bảo Quốc, nghệ sĩ Thanh Nga đã trở thành huyền thoại. Từ bé Nghi Xuân của Phạm Công - Cúc Hoa đến Tiếng trống Mê Linh, Nửa đời hương phấn, Phụng Nghi Đình, Thái hậu Dương Vân Nga… - những vai diễn kinh điển rèn nên chuẩn mực ca - diễn cho nhiều thế hệ. Nhìn qua ánh đèn sân khấu rực rỡ là cả hành trình bền bỉ mà người cha dượng Năm Nghĩa “đỡ tay” cho con từ những ngày đầu: Dạy nhạc, dạy nghề, đưa lên sân khấu ca mở màn… Sự giáo dưỡng bằng tay nghề ấy nối dài thành “truyền thống làm nghề”: Từ Hữu Thình, Hữu Châu, Hữu Lộc, đến Gia Bảo, Hà Linh… đều bước vào nghề trong một khí quyển chung với kỷ luật nghề và tình thân.

Trong gia tộc cải lương, Bảo Quốc lại chuyển sang diễn hài và từng trở thành "Đệ nhất danh hài".
Về mặt “doanh nghiệp sân khấu”, Thanh Minh - Thanh Nga là một hiện tượng đặc thù của Sài Gòn trước 1975 và cả giai đoạn sau 1975. Thời hưng thịnh, đoàn cạnh tranh sòng phẳng với Kim Chung, Dạ Lý Hương, có giai đoạn tách thành hai mũi để đi tỉnh, và là điểm hẹn của dàn soạn giả - đào kép thượng thặng. Sau 1959, bà bầu Thơ quán xuyến, giữ nhịp hoạt động. Về sau, các đời kế tục (trong đó có Bảo Quốc) tiếp tục gìn giữ thương hiệu, biến đoàn thành “mái nhà” dài lâu của nhiều nghệ sĩ. Câu chuyện ấy cho thấy một lát cắt rất riêng trong di sản của Năm Nghĩa: Ông không chỉ để lại bài bản và vai diễn, mà còn để lại một thiết chế sân khấu sống.
Bên cạnh "nữ hoàng sân khấu" Thanh Nga, 5 con ruột của ông Năm Nghĩa, trong đó Bảo Quốc nối nghiệp nổi bật nhất. Một khuôn mẫu gia đình mở, không phân biệt con ruột, con riêng theo nghĩa hẹp mà đặt cái “ruột” ở tình thương và nghề. Đó là điều khiến câu chuyện gia tộc này chạm cảm xúc.

Bảo Quốc bên người chị cùng mẹ khác cha - NSƯT Thanh Nga.
Tuy nhiên, nam nghệ sĩ tài hoa bạc mệnh, sớm về trời. Về sau, gia tộc còn trải qua một bi kịch khủng khiếp - vợ chồng nghệ sĩ Thanh Nga bị sát hại năm 1978, nhưng đó là câu chuyện của một thế hệ kế tiếp, càng cho thấy hào quang và cay đắng đan cài trong số phận gia đình nghệ sĩ.
Bảo Quốc từng thốt lên rằng: "Tôi có 3 điều bất hạnh trong đời, đó là sự ra đi của ba tôi - nghệ sĩ Năm Nghĩa (mất năm 1959), má tôi - bà bầu Nguyễn Thị Thơ (mất năm 1988) và chị tôi - cố NSƯT Thanh Nga (mất năm 1978). Một thanh niên mới lớn bước vào đời, tôi có được sự may mắn và thuận lợi của một con nhà nòi bầu hát, có sẵn gánh hát nhà để tạo điều kiện cho mình được hát. Nhưng gánh nặng áp lực đó khủng khiếp lắm! Một vai diễn dở thay cho lời góp ý thì người trong đoàn sẵn sàng mỉa mai: 'Con của bầu mà hát dở vậy sao?', hoặc ca trật một chữ, mọi ánh mắt nhìn về phía ba má tôi như để mắng vốn. Khi tôi mất đi những điểm tựa, một mình bước vào đời, tôi phải cố hết sức để trụ vững".
Đến nay, di sản của Năm Nghĩa vẫn sống động trong đời sống văn nghệ. Vọng cổ tiếp tục là “xương sống” của cải lương. Nhiều công trình nghiên cứu, bài báo, hồi ký nhắc lại dấu mốc của ông và chặng đường từ Thanh Minh đến Thanh Minh - Thanh Nga như một trục phát triển của sân khấu miền Nam. Thế hệ sau, từ nghệ sĩ hạng A đến lớp trẻ vẫn dùng những chuẩn mực ca - diễn mà ông đặt nền, vẫn kể câu chuyện về người thầy, người cha đã âm thầm “đỡ vai” cho cả nhà.

Bảo Quốc hiện tại có cuộc sống hạnh phúc bên bà xã. Nhiều con cháu trong gia tộc của ông vẫn theo nghề diễn.