Một tháng kể từ khi tiếp nhận, điều trị T.T.L., trẻ sơ sinh mắc giang mai sơ sinh đầu tiên trong suốt nhiều năm công tác, bác sĩ Phạm Thị Hà, khoa Hồi sức sơ sinh, bệnh viện Sản Nhi Nghệ An, vẫn chưa thôi ám ảnh.
Trước đó, khi đang trực đêm, bác sĩ Hà cùng đồng nghiệp tiếp nhận bệnh nhân là trẻ vừa sinh từ tuyến huyện chuyển lên. Bé thở khò khè, đứt đoạn. Qua xét nghiệm ban đầu, trẻ được chẩn đoán mắc giang mai.
Đêm hôm đó, khoa Hồi sức sơ sinh gần như không ngủ. Lần đầu, bệnh viện Sản Nhi Nghệ An tiếp nhận trẻ mắc giang mai bẩm sinh, chưa bao giờ các bác sĩ phải đối mặt tình thế khó xử như thế.
Bé được sinh ở bệnh viện huyện, từ người mẹ ngoài 30 tuổi bị giang mai. Mẹ của L. mang thai và siêu âm ở tháng thứ 3. Từ đây đến lúc chuyển dạ, người mẹ không siêu âm thêm lần nào.
Vừa chào đời, bé có biểu hiện viêm nhiễm tay chân với thể trạng non yếu. Bác sĩ tuyến huyện quyết định chuyển em vào bệnh viện Sản Nhi Nghệ An điều trị. Thời điểm nhập viện, bé L. suy hô hấp, phải thở oxy, bề mặt da tổn thương nặng do giang mai.
“Bé được chăm sóc tại khoa Hồi sức sơ sinh theo phác đồ điều trị bệnh giang mai cho trẻ sơ sinh. Hơn 20 ngày điều trị, tình trạng sức khỏe bé ổn định nhưng mãi đến khi xuất viện, chúng tôi chỉ gặp bà và cha bé, không rõ bệnh sử của người mẹ hay hoàn cảnh gia đình. Do đó, các bác sĩ không thể đưa ra nhận định thêm về khả năng tái phát trong thời gian tới. Bé cần được theo dõi, tái khám định kỳ. Từ khi xuất viện, chúng tôi chưa gặp lại bé. Có thể, em được đổi tên khác”, bác sĩ Hà nói.
Không chỉ riêng L. kém may mắn vì mang trong mình "bệnh người lớn" khi vừa lọt lòng, nhiều trẻ cũng rơi vào tình trạng tương tự.
Cuối tháng 10, bệnh viện Da liễu Trung ương cũng tiếp nhận một bé gái 3 ngày tuổi (ở Thái Bình) mắc bệnh lậu. Bé được xác định lây vi khuẩn lậu cầu từ người mẹ.
Cuối năm 2019, bệnh viện Da liễu TP.HCM điều trị một bé gái 18 tháng tuổi, mắc sùi mào gà. Nguyên nhân được xác định là trẻ lây virus từ cha mẹ. Ngoài ra, đơn vị này còn song song điều trị cho bé gái 6 tuổi mắc lậu, bệnh nhân 15 tuổi nhiễm giang mai.
Các bác sĩ bệnh viện Sản Nhi Nghệ An cho biết trường hợp của L. nói riêng và những đứa trẻ kém may mắn tương tự, nếu nhiễm xoắn khuẩn giang mai ồ ạt, thai nhi có nguy cơ tử vong vào tháng 5-6. Mức độ nhẹ hơn, những đứa trẻ có cơ hội chào đời nhưng phải gánh chịu hậu quả nặng nề.
Biện pháp kiểm soát
Bác sĩ chuyên khoa II Bùi Mạnh Hà - Phó trưởng khoa Lâm sàng 3, bệnh viện Da liễu TP.HCM, cho biết không chỉ số người mắc bệnh lây qua đường tình dục gia tăng, lượng trẻ sơ sinh mắc bệnh này cũng tăng theo tỷ lệ thuận.
Theo báo cáo của Việt Nam cho Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 2018, kể từ sau năm 2000 đến nay, tỷ lệ mắc bệnh giang mai có xu hướng tăng dần đều. Đặc biệt, con số này gia tăng mạnh mẽ trong vài năm gần đây tại nhiều khu vực trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam.
"Số trẻ mắc giang mai bẩm sinh tăng dần trong những năm gần đây, song song với tỷ lệ phụ nữ ở độ tuổi sinh sản nhiễm bệnh", bác sĩ Hà nhận định.
Chuyên gia này cho biết việc gia tăng nhanh chóng trẻ bị bệnh lây qua đường tình dục bẩm sinh phần lớn do phụ nữ trong độ tuổi sinh sản mắc nhiều. Những trường hợp này, phụ nữ mang thai không tầm soát, theo dõi kỹ, nguy cơ trẻ sinh ra mắc bệnh rất cao. Trẻ có thể bị nhiễm bệnh từ khi chưa chào đời hoặc tiếp xúc dịch tiết của người mẹ trong quá trình sinh.
"Việc trẻ sơ sinh mắc bệnh tình dục có thể ngăn ngừa, kiểm soát trước và trong thai kỳ. Dù sau khi sinh, trẻ có thể được điều trị, giải pháp tốt cho những đứa trẻ này và tránh hệ lụy trong tương lai vẫn là tầm soát thai kỳ. Điều này có thể giúp những đứa trẻ tránh được hệ lụy đáng tiếc", bác sĩ Hà cho biết thêm.
Một bài báo đăng tải trên tạp chí BMJ (Anh) chỉ ra chiến lược nhằm giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh mắc bệnh tình dục được nhiều quốc gia thử nghiệm và ứng dụng gồm uống thuốc kháng virus (ARV), rửa âm đạo bằng cholorhexidine (chất khử trùng). Ngoài ra, một số nghiên cứu về điều trị kháng sinh giả định trong thai kỳ cũng được thử nghiệm.
Biện pháp sàng lọc và quản lý bệnh lây qua đường tình dục trong thai kỳ là lựa chọn hàng đầu tại các nước đang phát triển. Điều này là do chi phí xét nghiệm sàng lọc rẻ, dễ chẩn đoán, nhất là giang mai và HIV ở người mẹ. Ở trẻ sơ sinh, WHO khuyến cáo tất cả trường hợp viêm kết mạc ở trẻ sơ sinh nên được điều trị như ca bệnh lậu và Chlamydia.
Gánh nặng toàn cầu
Bệnh tình dục lây truyền từ mẹ sang con có thể dẫn đến thai chết lưu, tử vong ở trẻ sơ sinh, nhẹ cân, sinh non, nhiễm trùng huyết, viêm phổi, viêm kết mạc ở trẻ sơ sinh và dị tật bẩm sinh.
Thống kê của WHO cho thấy mỗi năm, thế giới có khoảng 6,3 triệu ca giang mai mới. Một triệu phụ nữ mang thai mắc giang mai, 350.000 kết quả sinh nở bất lợi, 661.000 trẻ bị giang mai bẩm sinh, 200.000 trường hợp thai chết lưu và tử vong sơ sinh.
Trong số phụ nữ mắc bệnh này, 21% không tham gia khám thai, 16% (khoảng 55.000 người) được sàng lọc nhưng không điều trị.
Đối với phụ nữ mang thai mắc bệnh giang mai không được điều trị, xác suất xảy ra bất lợi khi sinh (ABO) là 52%. ABO bao gồm thai tử vong sớm hoặc thai chết lưu (21%), sinh non (trẻ chỉ sống trước 37 tuần tuổi), nhẹ cân (nặng < 2.500 g), tử vong sơ sinh (chết trong 28 ngày đầu) và bệnh lâm sàng (trong 29–365 ngày).
Hơn 30 loại vi khuẩn, virus và ký sinh trùng khác nhau được biết lây truyền qua đường tình dục. 8 trong số các mầm bệnh này liên quan tỷ lệ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục cao nhất. Trong số này, 4 bệnh có thể chữa được gồm giang mai, lậu, chlamydia và trichomonas.
Các bệnh nhiễm virus không thể chữa khỏi là viêm gan B, herpes simplex (HSV hoặc herpes), HIV và virus u nhú ở người (HPV). Các triệu chứng hoặc bệnh do nhiễm virus không thể chữa khỏi có thể được giảm bớt hoặc thay đổi thông qua điều trị.
Các bệnh này chủ yếu lây truyền khi quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn và miệng. Một số bệnh cũng có thể lây lan qua các phương tiện phi tình dục như đường máu hoặc sản phẩm của máu.
Các bệnh giang mai, viêm gan B, HIV, chlamydia, lậu, herpes và HPV…, có thể lây truyền từ mẹ sang con trong khi mang thai, sinh nở.
Các triệu chứng phổ biến của bệnh tình dục bao gồm tiết dịch âm đạo, niệu đạo hoặc nóng rát, loét bộ phận sinh dục, bề mặt da…, cũng có một số người mắc bệnh không có triệu chứng rõ ràng.