Loại cá được nhắc đến chính là cá mè, một loài cá nước ngọt rất phổ biến ở Việt Nam. Cá mè thường sống ở ao hồ, sông ngòi, kênh rạch… khác với các loại cá trê thường sống ở tầng đáy, cá mè sống ở tầng nổi, vì thế chúng ăn khá sạch và ít có nguy cơ nhiễm kim loại nặng. Vì lý do đó, thịt cá mè thường ngon ngọt, thậm chí thịt chúng còn được ví ngọt như mỳ chính.
Tuy nhiên, trong đời sống ẩm thực, dù cá mè to hay bé vẫn bị xếp vào hàng cá thứ cấp, thậm chí chỉ để chăn nuôi vì chúng nhiều xương nhỏ và có mùi tanh đặc trưng, nhất là ở phần bụng. Do vậy, khi ăn cá mè đa số mọi người thường bỏ phần bụng, chỉ ăn phần thịt lườn cá. PGS.TS Nguyễn Duy Thịnh, chuyên gia về Công nghệ thực phẩm cho biết, chính phần bụng cá mè chứa nhiều mỡ, lại rất tốt cho cơ thể vì có hàm lượng omega-3 rất lớn, không kém gì các loại cá biển.
Ông Thịnh cho biết, omega-3 có rất nhiều tác dụng với sức khỏe, đặc biệt là với não bộ. Theo đó, axit béo DHA là cấu phần chính của màng tế bào thần kinh, giúp cải thiện trí nhớ, tăng khả năng tập trung và duy trì chức năng nhận thức. Đây là lý do cá mè được nhiều chuyên gia khuyến nghị cho phụ nữ mang thai và trẻ em, nhằm hỗ trợ tốt nhất cho sự phát triển trí não.

Cá mè sống ở những vùng nước sạch, có giá trị dinh dưỡng cao nhưng nhiều người chê tanh không sử dụng. Ảnh minh họa.
Với hệ tim mạch, omega-3 giúp giảm triglyceride - loại mỡ máu nguy hiểm; đồng thời hạn chế sự hình thành mảng xơ vữa trong lòng mạch, từ đó giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ. Việc bổ sung cá mè vào thực đơn hằng ngày có thể giúp trái tim khỏe mạnh hơn, phòng ngừa nhiều biến chứng tim mạch nguy hiểm.
Ngoài chứa hàm lượng chất béo cao, cá mè còn có nguồn protein chất lượng cao khi chứa đầy đủ axít amin thiết yếu mà cơ thể không thể tự tổng hợp. Nhờ đó, cá mè giúp tái tạo tế bào, phục hồi cơ bắp sau vận động và duy trì hệ cơ xương chắc khỏe.
Theo dữ liệu của Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho thấy, 100g thịt cá mè cung cấp khoảng 144 calo, hơn 15g protein cùng nhiều khoáng chất thiết yếu như 82mg canxi, 18mg phốt pho, 229mg kali và selen… Đây đều là nhóm vi chất tham gia vào hoạt động cơ bắp, duy trì hệ thần kinh và nâng cao miễn dịch.
Lương y Đa khoa Bùi Đắc Sáng, Hội Đông y Việt Nam cho biết thêm, cá mè không chỉ là món ăn mà còn là vị thuốc. Cá mè còn gọi là liên ngư, bạch cước liên, phường ngư xuất hiện trong nhiều tài liệu y học cổ truyền. Theo Đông y, cá mè vị ngọt, tính ấm, không độc, có tác dụng bổ não tủy, nhuận phế, ích tỳ vị, điều hòa ngũ tạng, chống hư huyết mạch. Người cao tuổi dùng cá mè thường xuyên giúp giảm đau đầu, cải thiện trí nhớ, giảm ho đờm và hỗ trợ điều trị hen suyễn.

Cá mè có thể chế biến được nhiều món ăn, nhưng tuyệt đối không được ăn sống, làm gỏi. Ảnh minh họa.
Một số món ăn bài thuốc phổ biến như:
- Canh cá mè khởi tử: Cá mè tươi 300g nấu với 30g khởi tử, thêm giá đỗ xanh, gừng, rau mùi, hạt tiêu. Món ăn tốt cho người suy nhược, kém ăn, cơ thể mệt mỏi.
- Canh cá mè hạt mướp – nghệ vàng: Tốt cho phụ nữ huyết hư, mẹ sau sinh thiếu sữa.
- Canh cá mè gừng tươi: Dùng cho người tỳ vị hư hàn, ăn kém, đầy hơi, ợ nóng, sợ lạnh, ho suyễn.
- Cá mè hầm đậu đỏ: Hỗ trợ người bị phù nề, tiểu ít.
- Đầu cá mè hầm thiên ma: Thích hợp cho người hay đau đầu, chóng mặt, chân tay mỏi.
Các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo nên ưu tiên phương pháp chế biến ít dầu mỡ như hấp, kho, nấu canh. Nhiệt độ vừa phải giúp bảo toàn omega-3, loại axít béo dễ bị phá hủy khi chiên rán ở nhiệt độ cao.
Dù cá mè tốt cho sức khỏe, nhưng khi chế biến và sử dụng, PGS Nguyễn Duy Thịnh khuyến cáo người dân, nên làm sạch phần màng đen trong bụng cá, cạo sạch vảy để hạn chế mùi tanh của cá. Nên cho cá vào khi nước đã sôi cũng giảm phần nào mùi tanh đặc trưng của cá mè. Khi ăn cần lưu ý vì cá mè nhiều xương, dễ bị hóc nhất là với trẻ nhỏ. Cuối cùng, vị chuyên gia này khuyên người dân, hãy ăn cá mè khi được nấu chín. Cần từ bỏ thói quen ăn gỏi cá mè, dù loại cá này rất phù hợp đến làm gỏi vì có độ béo, ngọt thịt.